Pages

Subscribe:

Ads 468x60px

Featured Posts

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

Các ngân hàng Mỹ những quy định đối với tiền gửi cho khách hàng

      Để giúp các ngân hàng Mỹ thực thi Đạo luật niềm tin đối với tiết kiệm thông qua năm 1991; Hội đồng dợ trữ liên bang đã đưa ra các ví du về việc cung cấp thông tin thích hợp cho khách hàng về những quỳ định liên quan đến tiền gửi. Ví dụ như đối vớí các tài khoản chứng chỉ tiền gửi CDJ sẽ được trình bày dưới đây.

     Ví dụ về việc cung cấp thông tin của ngân hằng XYZ đối vứi chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn một năm:

     Thông tin về lãi suất. Lãi suất đối với tài khoản củabạn là 5,2% và tỷ lệ thu nhập bình quân năm là 5,34%. Bạn sẽ được hương mức thu nhập này cho tới ngầy đáo hạn của chứng chỉ. Chứng chỉ của bạn đáo hạn vào ngẳy 30 tháng 9 nămỉ 1996. Tỷ lệ thu nhập binh quân, năm được xây dụng trên giả định rằng tiến lẩi được trả vào ngày mãn hạn: Việc rút tiền trước hạn sẽ làm giảm thu nhập.

ngân hàng Mỹ


     Lãi của tài khoản sẽ được tính gộp hàng ngày và được ghi có vào tài khoản vẵo ngày cuối cùng hnỗí tháng. Lãi bắt dầu đươc tính từ ngày bạn gửi tiền hay séc vào ngân hàng.

     Số dư tối thiểu. Để mở tài khoản, tối thiểu ban phải gửi L000 USD. Bạn phải duy tà số du tài khoản không dưới 1.000 USD để có thể nhận được tỷ lệ thu nhập bình quân năm nêú trên.         

     Phương pháp tính số dư. Chúng tôi sử dụng.số dư hàng ngay dê tính thu nhập cho tài khoản của bạn. Phương pháp này áp dụng lãi suất trung bình ngày cho số tiền gửi ưong tài khoan mỗi ngày

     Giới hạn giao dịch. Sau khi mở tài khoản, bạn không dược gùi tiền vào hay rút tiền trước khi tài khoản Phải rút tiền trước hạn. Nếu bạn rút vốn gốc trước han, bạn sẽ bị phạt một khoản tiền có quyền rút tiền mà không bị phạt trong vòng 10 ngày .sau ngày đáo hạn.   


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/07/phuong-phap-inh-gia-co-ieu-kien.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: dòng tiền, tính thanh khoản

Phương pháp định giá có điều kiện

         Rất nhiều ngân hàng đã sử dụng Phương pháp định giá tự do có điều kiện để thay thế cho cả hai phương pháp nêu trên. Chính sách này tạo diéu kiện thuận lợi cho những khách hàng có các khoản liền gửi giá trị lớn bởi vì họ có thể được hưởng dịch vụ miền phí nếu như số dư tài khoản bình quân lớn hơn một mức tối thiểu nào đó. Một trong những ưu điểm của phương pháp này là khách hàng, chứ không phải ngàn hàng, sẽ có mọt kế hoạch tiền gửi thích hợp hơn. Quá trình tự lựa chọn này si: cung cấp thông tin vé thị trường, giúp cho ngân hàng hiểu được hành vi của khách hàng và chí phí cho nguồn tiền gửi. Phương pháp “định giá tự do có điều kiện” cho phép ngân hàng chia thị trường tiền gửi thành loại tài khoản có số dư cao, ổn định và những tài khoản có số dư thấp, ít ổn định.

định giá


         Dưới đây là một ví dụ về việc sử dụng.  Phương pháp định giá có điều kiện. Lệ phí của tài khoản giao dịch và tài khoản tiết kiệm do hai ngân hàng Mỹ công bố như sau:

Ngân hàng A

Tài khoản tiền gửi giao dich thông thường

Số dư mở tài khoản tối thiểu: 100 USD

Nếu số dư hàng ngày nhỏ nhất là:

 600USD hoặc hơn:  miễn phí300 USD – 599 USD:

5 USD/tháng dưới 300 USD:          10 USD/tháng

Nếu số dư trung bình tháng là 1500 USD thì khách hàng không phải trả lệ phí. Không giới hạn số lần viết séc

Tài khoán tiết kiêm thống thường Số dư mở tài khoản tối thiểu: 100 USD

Phí dịch vụ:

Nếu số dư dưới 200 USD: 3 USD/tháng

Số dư từ 200 USD trở lên: miễn phí

Số lần rút tiền lớn hơn 2 USD/tháng: 2

Ngân hàng B

Tài khoản tiền gửi giao dich thông thưởng Số dư mờ tài khoản tối thiểu: 100 USD Nếu sô dư hàng ngày nhỏ nhất là:

500 USD hoặc hơn:  miễn phí

dưới 500 USD:          3,5 USD/tháng

Nếu số lần viết séc hoặc sốlần giao dịch qua ATM lớn hơn 10 trong một tháng và sốdư dưới 500 USD, lệ phí sẽlà 0,15 USD cho một lần ghi nợ

Tài khoản tiết kiêm thống thưởng

Số dư mở tài khoản tối thiểu: 100 USD Phí dịch vụ:

Nếu số dư dưới 100 USD: 2 USD/tháng

Sốdư trên 100 USD: miễn phí 2

Số lần rút tiền lớn hơn 3 USD/tháng: 2

         Ta nhận thấy Ngân hàng A dường như thiên về các loại tiền gửi giao dịch có số dư lớn, ít biến động. Trong khi đó Ngân hàng B lại thiên về các tài khoản tiền gửi giao dịch quy mô nhỏ. Ngân hàng A định phí dịch vụ cho tài khoản tiền gửi giao dịch khi số dư thấp hơn 600 USD, trong khi đó khách hàng của Ngân hàng B không phải trả lệ phí dịch vụ cho tới khi số du tài khoản tiền gửi giao dịch thấp hơn 500 USD. Hơn nữa Ngân hàng A định phí dịch vụ cao hơn hẳn Ngân hàng B: 5 USD đến 10 USD so với 3,5 USD. Mặt khác Ngân hàng A không giới hạn số lượng séc phát hành trong khi Ngân hàng B định phí nếu số lần phát séc hoăc rút tiền vượt quá 10 lần trong một tháng. Tương tự, Ngân hàng A định phí dịch vụ 3 USD/tháng nếu số dư tài khoản dưới 200 USD còn Ngân hàng B chỉ định phí 2 USD đối với tài khoắn có số dư dưới 100 USD.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/07/gia-dich-vu-va-ky-han-cua-tien-gui.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: báo cáo tài chính của ngân hàng, thanh khoan

Giá dịch vụ và kỳ hạn của tiền gửi

       Năm 1994, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Riegie phát triển cộng đồng và củng cố các qui định. Đạo luậtmới thu hẹp phạm vi của Đạo luật niềm tin đối với tiết kiệm, Đạo luật cũ chỉ còn hiệu lực đối với tài khoản của cá nhân,hộ gia đình. Tài khoản thuộc các tổ chức phi kinh doanh không còn là đối tượng điều chỉnh của Đạo luật niềm tin đối với tiết kiệm.   

        Tiền gửi khác trên khắp nước Mỹ. Kết quả là một phương pháp định giá dịch vụ mới ra đời: phương pháp Bảng lệ phí trên gửi. Một số nhà kinh tế gọi đây là phương pháp “Định giá có điều kiện” bởi vì khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ thậm chí là không phải trả lệ phí nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định hoặc khách hàng sẽ phải trả một lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trung bình thấp hơn mức giới hạn. Do đó mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ thuộc vào việc anh ta sử dụng tiền gửi như thế nào.

kỳ hạn của tiền gửi


        Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một số những yếu tố sau:

       Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản (số séc được viết, số tiển gửi vào, số lần chuyển tiền, số lệnh ngừng trả hay số lần thấu chi).

       Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định (thường là một tháng).

      Kỳ hạn của tiền gửi theo ngày, tuần, hoặc tháng.

      Khách hàng phải lựa chọn ngân hàng và xây dựng kế hoạch tiền gửi sao cho mức lệ phí là thấp nhất và (hoặc) nhận được thu nhập cao nhất trên cơ sở dự kiến về số séc sẽ viết, số tiền gửi vào và rút ra cũng như số dư trung bình của tài khoản. Đương nhiên, khách hàng cũng phải xem xét tới các khía cạnh khác như mức độ an toàn và sự sẵn có của các dịch vụ.

      Nhà kinh tế học Constance Dunham phân loại những bảng giá áp dụng cho các tài khoản giao dịch mà ông dã quan sát ở New England thành 3 loại: (1) định giá cứng; (2) định giá tự do và (3) định giá tự do có điều kiện. Theo phương pháp thứ nhất, lệ phí cho một tờ séc hay cho một khoảng thời gian hoặc cả hai là không đổi. Do đó, ví dụ lệ phí cứng hàng tháng đối với một tài khoản có thể là 2 USD và khách hàng mỗi lần viết séc sẽ phải trả 10 cent dù cho sốtiền viết séc là bao nhiêu.

       Ngược lại, theo phương pháp định giá tự do, ngân hàng không định lệ phí tài khoản và lệ phí cho mỗi giao dịch. Tất nhlên từ “tự do” có thế là không chính xác. Cho dù ngân hàng không định một mức phí nào cho các dịch vụ tiền gửi thì khách hàng vẫn phải chịu chi phí ngầm dưới dạng thu nhập không nhận được nếu như họ dùng tiền gửi đầu tư vào các lĩnh vực khác (chi phí cơ hội). Điều này có nghĩa là lãi suất danh nghĩa của tiền gửi có thể thấp hơn tỷ lệ thu nhập từ hoạt động đầu tư với mức đô rủi ro tương tự. Nhiều ngân hàng nhận thấy định giá tự do là một phương pháp không hiệu quả vì nó chủ yếu thu hút các khoán tiền gửi vụn vặt, nhạy cảm. Các khoản tiền gửi như vậy chỉ tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị trường đang ở mức rất cao.



Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/07/thiet-lap-bang-gia-oi-voi-cac-nhom.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: bao cao tai chinh ngan hang, thanh khoản

Thiết lập bảng giá đối với các nhóm khách hàng gửi tiền

       Sự xuất hiện của tài khoản liền gửi giao dịch hưởng lãi ở bang New England trong suốt những năm 70 đã dẫn tới một cuộc cạnh tranh dữ dội giữa ngân hàng và các tổ chức nhận tài khoản tiền gửi không hưởng lãi hay không? nếu như khách hàng không nhớ việc thay mới tài khoản tiển gửi của họ. Thông thường, đối với loại tài khoản này, khách hàng phải nhận được thông báo ít nhất trongvòng 10 ngày trước khi tài khoản tiền gửi đáo hạn (có thời hạn trên 1 năm).. Những thay đổi trong lộ phí và trong các quy định khác làm giảm thu nhập của tiền gửi phải được ngân hàng thông báo cho khách hàng trước 30 ngày.

gửi tiền


       Trong các thông báo định kỳ về tài khoản, ngân hàng phải ghi rõ số tiền lãi mà khách hàng đã nhận được cũng như lãi suất bình quân năm mà họ được hưởng. Tỷ lệ thu nhập bình quân năm (APY) được xác định theo công thức sau:

APY =100 [(i+Tiền lãi/Số dư bình quân)

     Số dư tài khoản trong cồng thức trên được tính là số dư bình quân ngày trong,thời hạn nêu trong Bảng “kê khai tài khoản” gửi cho khách hàng. Khách hàng phải được biết về ảnh hưởng của việc rút tiền trước thời hạn tới APY.

     Giả sử một tài khoản tiền gửi hưởng lãi có số dư 1.500 USD trong 15 ngày đầu tiên và – 500 USD trong 15 ngày còn lại của kỳ hạn 30 ngày. Số dư trung bình một ngày là 1.000 USD, bằng (L500U$ X 15 ngày + 500U$ X 15 ngày)/30 ngày. Giả sử ngân hàng ghi vào bên có của tài khoản 5,25 USD tiền lãi cho 30 ngày gần nhất. Như vậy, APY của người gửi tiền sẽ là:

APY = l00 [(1 + 5,25/1.000)-1 ] = 6,58%

       Khi xác định số dư để tính lãi, ngân hàng phải tính số dư tổng hợp của tài khoản thay vì tính theo số dư nhỏ nhất. (Tổ chức nhận tiền gửi có thể sử dụngsố dư chính xác củatừng ngàỷ hoặc số dư trung bình hàng ngàyđể tính lãi cho khách hàng). Ngân hàng chỉ được sửdụng các phương pháp tínhlãi trên cơ sở sốdư tổng hợp. Lãi suất của tiền gửi mỗi ngày tối thiểu phải bằng 1/365 lãi suất danh nghĩa công bố trên tài khoản.



Đọc thêm tại:


Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

Đạo luật niềm tin đối với tiết kiệm (1991)

      Tháng 11/1991, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Niềm tin đối với tiết kiệm (TheTrurh In Savmgs,Act). Đạo luật mới yêu cầu các tổ chức nhận tiền gửi phải, thông báo rõ ràng hơn,về lệ phí; lãi suất và các, quy định, khác liên quan tới dịch vụ tiền gửi, Tháng 4/9/1992 Hội đồng Dự trữ Liên bang ra thông tư hướng dẫn các tổ chức nhận tiền gửi chấp hành luật mới này.

       Quy định của Ngân hàng Dự trữ Liên bang ghi rõ khách hàng phải được thông báo đầy đủ về các quy định liên quan đến tiền gửi trước khi họ mở tài khoản. Nếu khách hàng không có mặt khi mở tài khoản thì những thông tin vê các quy định liên quan đến tài khoản tiền gửi phải được chuyển cho họ trọng vòng 10 ngày giao dịch của tài khoản mới. Các tổ chức nhận tiền gửi phải thông báo một cách rõ ràng về các vấn đề như: số dự tài khoản tối thiểu, số dư để miễn phí dịch vụ hay để nhận được mức thu nhập đã cam kết, cách tính số dư bình quân cho mỗi tại khoản, chu kỳ tính lãi gộp, các quy định về việc phạt khách hàng trong trường hợp rút tiền sớm, cách thức lựa chọn thời gian đáo hạn, các phương pháp tái đầu tư và giải ngân, việc báo cho khách hàng khi tiền gửi của họ sắp đến ngày đáo hạn và các khoản tiền thưởng khách hàng có thể nhận được.

Quốc hội Mỹ


          Khi được hỏi về lãi suất hiện đang được áp dụng, ngân hàng phải thông báo về mức lãi suất mà nó đưa ra trong 7 ngày gần nhất vầ đồng thời phải cung cấp cho khách hàng số điện thoại để họ có thể nhận được thông tin về những thay đổi lãi suất. Đối với tài khoản lãi suất cố định, tổ chức nhân tiền gửi phải thông báo cho khách hàng thời hạn hiệu lực của mức lãi suất đó. Đối với các loại tiền gửi có lãi suất thay đổi, ngân hàng phải khuyến cáo với khách hàng về tính chất này củalãi suất. Đồng thời ngân hàng phải giải thích rõ ràng về phương pháp tính lãi suất cũng như những giới hạn về mức lãi suất nếu có. Đối với tất cả các tài khoản hưởng lãi, ngân hàng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và thông qua phương tiện quảng cáo về chu kỳ gộp lãi và ghi có.

      Đối với nhưng tài khoản không tự điều chỉnh sau 1 chu kì, nếu khách hàng muốn tiếp tục gửi tiền thì ngân hàng phải xem đó như là việc lập mới một tài khoản tiền gửi và ngân hàng phải thực hiện đầy đủ các quy định về thông tin cho khách hàng. Khách hàng phải được thông báo trong trường hợp tài khoản của họ được tự động thay mới và nếu không được thay mới thì điều gì sẽ xảy ra đối với số tiền của họ.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/07/phuong-phap-inh-gia-xam-nhap-thi-truong.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: báo cáo tài chính ngân hàng, tính thanh khoản